Tại hội thảo, Hội thảo đã vinh dự đón tiếp PGS.TS. Đỗ Ngọc Mỹ - Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn, PGS.TS. Đặng Văn Thanh, GS.TS. Nguyễn Khắc Minh, GS.TS. Nguyễn Văn Công, PGS.TS. Đinh Phi Hổ, PGS.TS. Võ Văn Nhị và nhiều đại biểu là các Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ,…là đại diện các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội, các nhà khoa học của các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, các cơ quan thông tấn báo chí đã tham gia viết bài, báo cáo kết quả nghiên cứu, thảo luận và đưa tin về Hội thảo.
Hội thảo đã nghe báo cáo đề dẫn, 03 báo cáo phiên khai mạc và hàng chục báo cáo tham luận tại phiên tiểu ban và hàng chục ý kiến phản biện, trao đổi của các nhà khoa học. Báo cáo đề dẫn, các tham luận cùng các ý kiến phản biện và phát biểu trực tiếp tại hội thảo đã tập trung bổ sung, làm rõ một số vấn đề sau đây:
1.Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra những tác động mạnh mẽ đối với xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới, làm biến đổi rõ nét nguồn nhân lực thuộc mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong đó có lĩnh vực kế toán.Điều này đòi hỏi nhân lực kế toán với chất lượng cao hơn, có khả năng sáng tạo, thích ứng với sự thay đổi của khoa học công nghệ. Tuy nhiên, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy kế toán tại các trường Đại học ở Việt Nam hiện nay chưa theo kịp với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Từ đó đòi hỏi các cơ sở đào tạo đại học kinh tế, kế toán ở Việt Nam cần có các giải pháp đổi mới đồng bộ cả về nội dung chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy nhằm trang bị cho người học những kiến thức về lý thuyết và thực tiễn, những kỹ năng cần thiết để sẵn sàng trở thành người lao động có trình độ cao, thích ứng với những yêu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh công nghệ ngày càng phát triển như hiện nay.
2. Việc ứng dụng mô hình phòng kế toán ảo trong đào tạo sinh viên chuyên ngành Kế toán là một cơ sở để nâng cao chất lượng dạy và học, gắn liền lý luận và thực tiễn trong việc đào tạo chuyên ngành Kế toán nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra và yêu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp, nhà tuyển dụng hiện nay. Các nội dung thực hành trong mô hình phòng kế toán ảo sát với thực tế doanh nghiệp nên sẽ giúp sinh viên hứng thú với việc học, củng cố các kiến thức đã được trang bị và vận dụng vào thực tiễn. Đồng thời đây cũng là cơ hội để sinh viên rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp giúp sinh viên tự tin hơn trong quá trình xin việc và đi làm sau này.
3. Việc vận dụng IFRS trong lập và trình bày báo cáo tài chính là xu thế tất yếu trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu bởi IFRS là ngôn ngữ chung về kế toán quốc tế. Áp dụng IFRS tại Việt Nam sẽ đem lại nhiều lợi ích cơ bản như thông tin minh bạch, đảm bảo tính so sánh được với các quốc gia khác, gia tăng trách nhiệm công bố thông tin của doanh nghiệp. Đào tạo các kế toán viên có trình độ chuyên môn và hiểu biết về IFRS là một nhiệm vụ tất yếu hiện nay của các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam chưa có chương trình đào tạo về IFRS một cách hệ thống, các giáo trình và tài liệu về IFRSchủ yếu bằng Tiếng Anh. Đồng thời, về phía Bộ Tài chính cũng chưa ban hành các văn bản để định hướng rõ ràng lộ trình áp dụng và triển khai IFRS. Vì vậy, để công tác đào tạo IFRS tại các trường đại học và cao đẳng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu, đòi hỏi của xã hội thì phải có sự chung tay đồng lòng từ cả nhiều phía: cơ quan chức năng, nhà trường, người dạy và người học.
4. Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ từng là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, nhưng trước Cách mạng Công nghiệp 4.0, đây có vẻ không còn là lợi thế. Với trình độ chuyên môn và năng suất lao động thấp,khả năng ngoại ngữhạn chếnên lao động Việt Nam lại gặp một số vấn đề trong tiếp cận các ứng dụng của công nghệ thông tin, điều khiển, tự động hóa mà cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 mang lạido vậy dễ gặp nhiều nguy cơ mất việc làm. Hơn nữa với cấu trúc “nông nghiệp” của nền kinh tế Việt Nam sẽ gây khó khăn trong việc thích ứng tiến bộ khoa học công nghệ của thời đại công nghiệp 4.0. Các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng cần nâng cao trình độ chuyên môn cho lao động và điều chỉnh đào tạo nhân lực theo xu hướng nghề nghiệp mới.
5. Các nhà khoa học cho rằng, Việt Nam nói chung và Bình Định nói riêng cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút, sử dụng FDI khoa học, hợp lý; Cải thiện nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầngphục vụ các dự án FDI; Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho FDI; xúc tiến đầu tư phù hợp; Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các nhà đầu tư tùy theo từng lĩnh vực trong từng thời kỳ; Tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp FDI; Thu hút và sử dụng hợp lý nhân tài cả trong và ngoài nước; Tận dụngmối liên kết chiến lược vùng duyên hải Nam Trung Bộ nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoàicho khu vực này để tạo sự phát triển cân đối cho các vùng miền.
6. Năng suất lao động của lao động Việt Nam còn thấp và năng lực hội nhập chưa cao nên Nhà nước cần phải có quy hoạch nhân lực theo ngành nghề, vùng miền để cân đối các nguồn lực trong phát triển kinh tế với bối cảnh công nghiệp 4.0; đặc biệt là lao động có hàm lượng chất xám về khoa học và công nghệ.
7. Ngoài những nội dung chính được báo cáo tại Hội thảo và đăng kỷ yếu, một số vấn đề khác cũng được nhiều đại biểu tham dự đóng góp ý kiến, trao đổi về giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng thông tin kế toán quản trị; các vấn đề liên quan đến kế toán môi trường; nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn, hành nghề kế toán – kiểm toán tại Việt Nam hiện nay; ứng dụng tin học trong kế toán – kiểm toán; nâng cao chất lượng thông tin tài chính đối với các doanh nghiệp, tổ chức tài chính và một số các vấn đề khác có liên quan.
Hy vọng, báo cáo và kết luận của Hội thảo đã cung cấp thêm thông tin, các luận cứ khoa học và thực tiễn đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo khối ngành kinh tế, kế toán - kiểm toán và các doanh nghiệp,… trong việc ban hành các chính sách, chiến lược phát triển, đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.